ATP là gì, chúng ta có cần đến ATP hay không, tập gym cần lưu ý gì để duy trì lượng ATP trong cơ thể ổn định.
Định nghĩa ATP là gì trong tập Gym
Định nghĩa ATP là gì ?
ATP là một nguồn năng lượng cần thiết cho cơ bắp và các tế bào hoạt động 1 cách bình thường. Đây là 1 hợp chất giàu năng lượng chuyển hóa sinh dọc để giúp phục hồi và sử dụng năng lượng hiệu quả.
Khi thủy phân ATP sẽ tạo thành ADP (Andenozin Diphotphat) và 1 nhóm Photphat vô cơ cùng đó giải phóng 12K calo năng lượng tự do.
Dự trữ ATP trong 1 bó cơ không nhiều, để có cơ lâu dài ATP luôn phải được phục hồi đầy đủ. Năng lượng dùng để phục hồi ATP bằng cách phân giải nhiều chất khác nhau: tinh bột, protein, chất béo.
Trong cơ thể, ATP được tổng hợp bằng 2 con đường khác nhau:
- Không có sự tham gia của oxy gọi là quá trình yếm khí.
- Có sự tham gia của oxy gọi là quá trình hiếu khí.
Để tái tạo ATP có 3 hệ thống (hệ năng lượng) làm việc:
- Hệ photphagen
- Hệ lactic
- Hệ oxy
Trong đó hệ photphagen và hệ lactic là hệ yếm khí, hệ oxy là hệ hiếu khí.
Ba hệ trên khác nhau về:
+ Cơ chất: chất sinh ra năng lượng.
+ Dung lượng: là số lượng tối đa có thể cung cấp.
+ Công suất: là nguồn năng lượng tối đa có thể cung cấp trong 1 khoảng thời gian nhất định.
Mức độ tham gia của 3 hệ năng lượng trên phụ thuộc vào: công suất và thời gian co cơ, điều kiện hoạt động của cơ và mức độ cung cấp oxy cho cơ thể.
Hệ năng lượng PHOSPHAGEN
Lượng ATP tiêu hao trong co cơ có thể tái tổng hợp nhờ vào creatine chứa trong cơ (creatine photphat) vì thế hệ năng lượng này còn có 1 tên gọi khác là ATP-CP. Chúng ta không đi sâu vào cách mà các hệ năng lượng thực hiện trong tế bào để cho bài viết đơn giản dễ hiểu hơn.
Phosphagen là hệ năng lượng cung cấp nhanh nhất cho cơ thể. Nó được sử dụng trong giai đoạn đầu của các hoạt động cơ bắp. Hệ phosphagen có công suất lớn nhất, gấp 3 lần hệ lactic, gấp 4 lần hệ oxy. Do đó, hệ Phospahgen có vai trò chủ yếu trong việc cung cấp năng lượng cho các hoạt động có công suất tối đa: chạy ngắn, ném, đẩy, nhảy … Việc cung cấp năng lượng bằng hệ này cực kì ngắn (không quá 12s) do đó đối với các hoạt động lâu hơn thì cần phải có sự tham gia của các hệ năng lượng khác.
Hệ LACTIC
Trong các hoạt động tương đối dài hơn thì cơ thể sử dụng năng lượng để tái tổng hợp ATP và CP bằng cách phân giải yếm khí đường glucose. Phản ứng sẽ sinh ra axit lactic gây độc hại mệt mỏi cơ. Do đó hệ năng lượng này có tên là hệ Lactic.
Cơ chất của hệ năng lượng này là glycogen dự trữ trong cơ, glucose trong máu chuyển vào cơ, và glucose từ gan vận chuyển vào máu.
Hệ năng lượng này có công suất nhỏ hơn hệ Phosphagen (nhỏ hơn 3 lần hệ phosphagen và lớn hơn 1.5 lần hệ oxy)
Trong hoạt động tối đa, sự phân giải glycogen yếm khí cũng chỉ xảy ra không quá 25% lượng glycogen dự trữ. Do vậy dung lượng của hệ năng lượng lactin cũng không lớn lắm.
Hệ năng lượng này bắt đầu hoạt động ngay từ lúc co cơ nhưng đạt công suất lớn nhất sau 30-40s. Do đó hệ lactic có vai trò quyết định trong việc cung cấp năng lượng cho các hoạt động kéo dài từ 20s đến vài phút.
Trong hoạt động của hệ lactic, lượng glycongen trong cơ và trong gan không bao giờ được sử dụng đến mức cạn kiệt. Năng lượng hệ lactic hạn chế không phải do trữ lượng glycogen ít mà là do axit lactic sinh ra đã ức chế các men phân giải glycogen.
Hệ năng lượng Oxy
Trong các hoạt động cơ bắp có công suất không lớn kéo dài và được cung cấp oxy đầy đủ, tức là trong hoạt động ưa khí, cơ thể sử dụng phản ứng oxy hóa các chất dinh dưỡng như: đường, protein và chất béo để cung cấp năng lượng cho cơ thể hoạt động. Hệ năng lượng này được gọi là hệ oxy hóa.
Hệ năng lượng oxy hóa này sử dụng 2 chất chính đó là: đường và chất béo để cung cấp năng lượng cho hoạt động co cơ. Hai chất này khác nhau rõ rệt về công suất cũng như dung lượng.
Oxy hóa đường: xảy ra giống như thủy phân glucose trong hệ lactic. Do quá trình này có oxy nên axit lactic sinh ra sẽ tiếp tục bị oxy hóa thành CO2 và nước.
Dung lượng của hệ oxy hóa đường phụ thuộc vào trữ lượng glycogen ở cơ và gan và khả năng tái tạo glucose từ các chất khác (axit lactic, axit amin, axit pyruvic …) của gan với dung lượng lớn.
Trong khi đó sự phân giải ưa khí chất béo sẽ sinh ra nhiều năng lượng hơn oxy hóa đường. Do mỡ trong cơ thể có trữ lượng rất lớn (trung bình từ 10%-30% khối lượng cơ thể) đủ năng lượng cho cơ thể có thể hoạt động liên tục hàng chục ngày.
Tỷ lệ đường và mỡ bị oxy hóa bị phụ thuộc vào công suất của hoạt động ưa khí. Công suất càng lớn thì sẽ oxy hóa đường nhiều, công suất nhỏ thì sẽ oxy hóa mỡ nhiều.
TÓM TẮT
Thời gian (giây) | Phân loại hoạt động | Năng lượng cung cấp do |
1-5 | Yếm khí | ATP (dự trữ tại cơ bắp) |
5-10 | Yếm khí | ATP + CP |
10-45 | Yếm khí | ATP+CP+Glycogen |
45-120 | Yếm khí + Lactic | Glycogen |
120-240 | Yếm khí + Hiếu khí | GLycogen + Lactic |
>240 | Hiếu khí | Glycogen + Chất béo |
KẾT LUẬN
Qua bài viết này các bạn đã hiểu được ATP là gì và cách hoạt động của 3 hệ năng lượng trong vai trò tổng hợp ATP phục vụ cho hoạt động cơ bắp.
Từ đây bạn có thể áp dụng vào buổi tập thể hình để đạt được kết quả tối ưu cho bản thân. Mục tiêu tăng cơ bắp thì nên sử dụng hệ năng lượng nào? Giảm cân thì dùng hệ năng lượng nào? Giảm mỡ giữ cơ thì sao? Chắc chắn là bạn đã tự trả lời được những câu hỏi này.
Xin chào và chúc các bạn thành công.